Kinh Tế

THÔNG CÁO BÁO CHÍ VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI QUÝ I NĂM 2021 BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC Kinh tế – xã hội ba tháng đầu năm 2021 của nước ta diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi sau nỗ lực nghiên cứu và triển khai tiêm chủng vắc- xin phòng dịch Covid-19 ở nhiều nước trên thế giới. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và các tổ chức quốc tế khác đã đưa ra dự báo khả quan về triển vọng kinh tế toàn cầu[1]. Các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU dự báo đạt mức tăng trưởng khá nhờ nỗ lực tiêm vắc-xin và ban hành những gói cứu trợ nền kinh tế[2]. Giá cả hàng hóa thế giới có xu hướng tăng, thị trường chứng khoán toàn cầu tăng mạnh[3]. Trong nước, tiếp đà phục hồi và tăng trưởng tích cực từ quý IV năm 2020, kinh tế vĩ mô nước ta tiếp tục ổn định, thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, dịch Covid-19 bùng phát ở một số tỉnh, thành phố cuối tháng Một đã đặt ra không ít thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2021. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý I năm nay như sau: I. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2021 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 3,68% của quý I/2020, dù bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 ở một số địa phương cho thấy sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự nỗ lực của các cấp, các ngành, người dân và doanh nghiệp để tiếp tục thực hiện hiệu quả mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế”. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,16% so với cùng kỳ năm trước (đóng góp 8,34% vào mức tăng trưởng chung); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,3% (đóng góp 55,96%), trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 9,45%; khu vực dịch vụ tăng 3,34% (đóng góp 35,7%), trong đó các ngành dịch vụ thị trường như: Bán buôn và bán lẻ tăng 6,45%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,35%. Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,71%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,45%; khu vực dịch vụ chiếm 42,20%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,64% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2020 là 11,66%; 35,86%; 42,82%; 9,66%). Trên góc độ sử dụng GDP quý I/2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,59% so với cùng kỳ năm 2020; tích lũy tài sản tăng 4,08%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 17,01%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,38%. 2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I năm 2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi: rét đậm, rét hại, hạn hán và xâm nhập mặn không diễn ra gay gắt như cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa và sản lượng cây lâu năm đạt khá; đàn lợn tiếp tục đà hồi phục. Sản xuất lâm nghiệp phát triển, thị trường xuất khẩu các mặt hàng gỗ và lâm sản được mở rộng. Sản xuất thủy sản khả quan hơn so với cùng kỳ năm trước, giá cá tra và tôm thương phẩm có xu hướng tăng. a) Nông nghiệp Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo trồng được 2.973,4 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,4% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.056,4 nghìn ha, bằng 99%; các địa phương phía Nam đạt 1.917 nghìn ha, bằng 99,6%, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.518,1 nghìn ha, bằng 98,2%. Đến nay, vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 731,3 nghìn ha, năng suất đạt 70,2 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha so với năm trước; sản lượng ước tính đạt 10,66 triệu tấn, tăng hơn 85 nghìn tấn. Đến trung tuần tháng Ba, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn tất công tác thu hoạch lúa vụ mùa 2020-2021. Diện tích gieo trồng lúa mùa của toàn vùng ước tính đạt 150,7 nghìn ha, bằng 89,1% vụ mùa năm trước; năng suất đạt 49,4 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha so năm trước nhưng vì diện tích giảm sâu nên sản lượng đạt 665,2 nghìn tấn, giảm 95,1 nghìn tấn. Tính đến giữa tháng Ba, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 333 nghìn ha ngô, bằng 100,7% cùng kỳ năm trước; 54,1 nghìn ha khoai lang, bằng 93,9%; 11,9 nghìn ha đậu tương, bằng 88,8%; 107,3 nghìn ha lạc, bằng 97%; 558,8 nghìn ha rau đậu, bằng 100,1%. Trong quý I/2021, sản lượng thu hoạch một số cây công nghiệp lâu năm như sau: Điều đạt 193,1 nghìn tấn, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu đạt 200 nghìn tấn, giảm 0,5%; cao su đạt 119 nghìn tấn, tăng 1,6%, chè búp đạt 154,9 nghìn tấn, tăng 1,9%. Sản lượng một số loại cây ăn quả tăng: Bưởi đạt 143,3 nghìn tấn, tăng 2,4%; thanh long đạt 326,3 nghìn tấn, tăng 4,3%; xoài đạt 236,7 nghìn tấn, tăng 1,3%; dứa đạt 134,3 nghìn tấn, tăng 7%; chuối đạt 653,4 nghìn tấn, tăng 2,5%. Tháng Ba đàn trâu cả nước tiếp tục giảm 2,3% so với cùng thời điểm năm trước do hiệu quả kinh tế không cao, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng trong quý I/2021 đạt 32,2 nghìn tấn, tăng 0,7%. Đàn bò tháng Ba phát triển khá, tăng 4,4%, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng quý I đạt 120,7 nghìn tấn, tăng 4,8%. Sản lượng sữa bò tươi quý I đạt 270,1 nghìn tấn, tăng 5,1%. Chăn nuôi lợn tiếp tục đà hồi phục trên cả nước, ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba năm 2021 tăng 11,6% so với cùng thời điểm năm 2020; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước tính đạt 1.018,8 nghìn tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi gia cầm tiếp tục phát triển do hộ chăn nuôi mở rộng quy mô, ước tính tổng đàn gia cầm của cả nước tháng Ba tăng 8,3% so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I/2021 đạt 513,6 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng trứng gia cầm quý I đạt 4,5 tỷ quả, tăng 3,5%. b) Lâm nghiệp Trong quý I/2021, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước đạt 33,2 nghìn ha, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 26,4 triệu cây, tăng 1,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt gần 3 triệu m3, tăng 4%; sản lượng củi khai thác đạt gần 4,5 triệu ste, giảm 0,2%; diện tích rừng bị thiệt hại là 357 ha, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 115 ha, giảm 28,6%; diện tích rừng bị chặt phá là 242 ha, tăng 15,2%. c) Thủy sản Sản lượng thủy sản tháng Ba ước đạt 683,9 nghìn tấn, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 485,9 nghìn tấn, tăng 1,3%; tôm đạt 69,8 nghìn tấn, tăng 8,1%; thủy sản khác đạt 128,2 nghìn tấn, tăng 7,4%. Quý I năm 2021, sản lượng thủy sản ước đạt 1.825,3 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1.360,1 nghìn tấn, tăng 1,1%; tôm đạt 170,8 nghìn tấn, tăng 5,8%; thủy sản khác đạt 294,4 nghìn tấn, tăng 4,7%. Ước tính quý I/2021, sản lượng cá tra đạt 321,8 nghìn tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Giá tôm thẻ chân trắng thời điểm trung tuần tháng Ba so với thời điểm đầu tháng Một tăng ở các kích cỡ từ 20-50 con/kg, giảm nhẹ ở các kích cỡ từ 60-130 con/kg[4]. Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh và hai giai đoạn vẫn đang phát triển. Giá tôm sú không biến động so với đầu năm và tăng so với trung tuần tháng Ba năm ngoái[5]. Một số diện tích nuôi tôm sú kém hiệu quả đã chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng. Tính chung quý I/2021, sản lượng tôm sú ước đạt 47,1 nghìn tấn, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 77,7 nghìn tấn, tăng 8,6%. 3. Ngành công nghiệp quý I/2021 đạt mức tăng khá 6,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,45%, cao hơn tốc độ tăng 7,12% của cùng kỳ năm trước nhưng thấp hơn tốc độ tăng 14,30% của quý I/2018 và 11,52% của quý I/2019; sản xuất và phân phối điện tăng trưởng ổn định; ngành khai khoáng giảm sâu chủ yếu do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2021 ước tính tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,45%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,5%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,78%; ngành khai khoáng giảm 8,24% do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh. Tính chung quý I/2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2020 tăng 2,8%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2021 tăng 22,5% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2020 tăng 24,9%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2021 đạt 75,1% (cùng kỳ năm trước là 78,4%). 4. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 3 tháng đầu năm 2021 giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước nhưng có vốn đăng ký tăng 27,5%, nguyên nhân do gia tăng số lượng doanh nghiệp có vốn đăng ký trên 100 tỷ đồng (tăng 36,8%) và giảm số lượng doanh nghiệp có vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng (giảm 3,3%). Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 28,2% so với cùng kỳ năm 2020; doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tăng 26,4%, đây phần lớn là doanh nghiệp trẻ, quy mô nhỏ, dễ chịu tổn thương do tác động tiêu cực từ bên ngoài. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy các doanh nghiệp kỳ vọng sản xuất kinh doanh trong quý II/2021 khả quan hơn quý I/2021. a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[6] Trong quý I năm 2021, cả nước có 29,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 447,8 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 245,6 nghìn lao động, giảm 1,4% về số doanh nghiệp, tăng 27,5% về vốn đăng ký và tăng 0,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 3 tháng đạt 15,3 tỷ đồng, tăng 29,2% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 525,3 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 9,6 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 3 tháng đầu năm 2021 là 973,1 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 14,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 3 tháng đầu năm 2021 lên 44 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có gần 14,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Cũng trong 3 tháng đầu năm nay, có 40,3 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: 23,8 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 28,2% so với cùng kỳ năm trước; 11,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 7,3%; 5,2 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 26,4%. Trung bình mỗi tháng có 13,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2021 cho thấy: Có 68,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh Quý I/2021 tốt hơn và ổn định so với Quý IV/2020, trong đó: 29,6% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn; 39% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Có 31,4% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn so với quý IV/2020[7]. Dự kiến quý II/2021 so với quý I/2021, có 85,1% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng tốt lên và ổn định, trong đó: 51% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên và 34,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Có 14,9% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn so với quý I/2021. Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng tháng Ba có xu hướng phục hồi khi dịch Covid-19 được kiểm soát. Tính chung quý I/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, vận tải hành khách và hoạt động du lịch trong quý I vẫn gặp nhiều khó khăn do hạn chế đi lại và Việt Nam tiếp tục chưa mở cửa du lịch quốc tế. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2021 đạt 1.291,1 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I năm nay ước tính đạt 1.033,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 80,1% tổng mức và tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 124 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,6% tổng mức và giảm 3%; doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 3,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,2% tổng mức và giảm 60,1% (cùng kỳ năm 2020 giảm 24,8%); doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 130,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và tăng 3,9%. Vận tải hành khách quý I/2021 đạt 1.012,3 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 6,1%) và luân chuyển 42,2 tỷ lượt khách.km, giảm 20,9% (cùng kỳ năm trước giảm 8%). Vận tải hàng hóa quý I đạt 472,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 tăng 1,1%) và luân chuyển 86,1 tỷ tấn.km, tăng 4,4% (cùng kỳ năm trước tăng 0,1%). Doanh thu hoạt động viễn thông quý I ước tính đạt 78,9 nghìn tỷ đồng, giảm nhẹ 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến cuối tháng 3/2021, tổng số thuê bao điện thoại ước tính đạt 128,1 triệu thuê bao, tăng 0,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó số thuê bao di động là 125 triệu thuê bao, tăng 0,7%; thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định ước tính đạt 17,2 triệu thuê bao, tăng 12,1%. Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 3/2021 ước tính đạt 19,4 nghìn lượt người, tăng 77,3% so với tháng trước và giảm 95,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2021, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 48,1 nghìn lượt người, giảm 98,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 31 nghìn lượt người, chiếm 64,5% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 99%; bằng đường bộ đạt 16,9 nghìn lượt người, chiếm 35,2% và giảm 96,9%; bằng đường biển đạt 129 lượt người, chiếm 0,3% và giảm 99,9%. Khách đến từ châu Á đạt 42,6 nghìn lượt người, chiếm 88,6% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 98,4% so với cùng kỳ năm trước. Khách đến từ châu Âu ước tính đạt 3,6 nghìn lượt người, giảm 99,5%; khách đến từ châu Mỹ đạt gần 1,3 nghìn lượt người, giảm 99,5%; khách đến từ châu Úc đạt 325 lượt người, giảm 99,7%; khách đến từ châu Phi đạt 303 lượt người, giảm 97,5%. 6. Nhu cầu tín dụng của nền kinh tế tăng khi hoạt động sản xuất kinh doanh dần trở lại trạng thái bình thường; thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định; thị trường chứng khoán tăng trưởng khá với tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế quý I/2021 tăng 42% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến thời điểm 19/3/2021, tổng phương tiện thanh toán tăng 1,49% so với cuối năm 2020 (cùng thời điểm năm trước tăng 1,55%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0,54% (cùng thời điểm năm 2020 tăng 0,51%); tín dụng của nền kinh tế tăng 1,47% (cùng thời điểm năm 2020 tăng 0,68%). Tổng doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm quý I/2021 ước tính tăng 9% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng 6% và doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 11%. Tính từ đầu năm đến nay, tổng mức huy động vốn trên thị trường chứng khoán ước tính đạt 55.562 tỷ đồng, tăng 42% so với cùng kỳ năm trước. Trên thị trường cổ phiếu, tính đến 11h00 ngày 24/3/2021, chỉ số VNIndex đạt 1.170 điểm, tăng 0,3% so với cuối tháng trước và tăng 6,08% so với cuối năm 2020; mức vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến ngày 18/3/2021 đạt 5.916 nghìn tỷ đồng, tăng 11,8% so với cuối năm 2020; giá trị giao dịch bình quân từ đầu năm đến nay đạt 18.907 tỷ đồng/phiên, tăng 155% so với bình quân năm trước. Trên thị trường trái phiếu, hiện nay thị trường có 467 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt 1.382 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với năm trước. Trên thị trường chứng khoán phái sinh, tính chung quý I/2021, khối lượng giao dịch bình quân đạt 174.324 hợp đồng/phiên, tăng 11% so với bình quân năm trước. 7. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2021 theo giá hiện hành ước đạt 507,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng này cho thấy tín hiệu tích cực trong việc huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế trong bối cảnh dịch Covid-19 đã được kiểm soát thành công tại Việt Nam. Đây cũng là động lực quan trọng để việc huy động và sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong các quý tiếp theo của năm 2021. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2021 theo giá hiện hành ước tính đạt 507,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 122,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,1% tổng vốn và tăng 7,5%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 290,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 57,2% và tăng 5,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 95,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,7% và tăng 6,5%. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 10,13 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 234 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 7,2 tỷ USD, giảm 69,1% về số dự án và tăng 30,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 161 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 2,1 tỷ USD, tăng 97,4%; có 734 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn gần 805,3 triệu USD, giảm 58,8%, bao gồm: 179 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 281 triệu USD và 555 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 524,3 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I/2021 ước tính đạt 4,1 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 3 tháng đầu năm 2021 có 14 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 140,2 triệu USD, gấp 6 lần so với cùng kỳ năm trước[8]; có 6 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm 431,9 triệu USD[9]. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) đạt 572,1 triệu USD. 8. Dịch Covid-19 được kiểm soát chặt chẽ, hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nước trở lại bình thường như thời điểm trước Tết Nguyên đán Tân Sửu đã tác động tích cực đến thu, chi ngân sách Nhà nước trong 15 ngày đầu tháng Ba. Chi đầu tư phát triển trong kỳ có chuyển biến tốt, trong đó đã hỗ trợ kịp thời để mua sắm vật phẩm, trang thiết bị y tế phục vụ công tác phòng chống dịch Covid-19. Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2021 ước tính đạt 320,1 nghìn tỷ đồng, bằng 23,8% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 269 nghìn tỷ đồng, bằng 23,7%; thu từ dầu thô 6,5 nghìn tỷ đồng, bằng 28%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 44,1 nghìn tỷ đồng, bằng 24,7%. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2021 ước tính đạt 264,2 nghìn tỷ đồng, bằng 15,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 196,8 nghìn tỷ đồng, bằng 19%; chi đầu tư phát triển 39,1 nghìn tỷ đồng, bằng 8,2%; chi trả nợ lãi 27,9 nghìn tỷ đồng, bằng 25,4%. 9. Quý I năm 2021 ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động xuất, nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2021 ước tính đạt 152,65 tỷ USD, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 77,34 tỷ USD, tăng 22%; nhập khẩu hàng hóa đạt 75,31 tỷ USD, tăng 26,3%[10]. Cán cân thương mại hàng hóa quý I năm 2021 ước tính xuất siêu 2,03 tỷ USD. a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[11] Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2021 ước tính đạt 28,6 tỷ USD, tăng 41,6% so với tháng trước. Tính chung quý I/2021, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 77,34 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 18,3 tỷ USD, tăng 4,9%, chiếm 23,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 59,04 tỷ USD, tăng 28,5%, chiếm 76,3%. Trong quý I có 11 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 76,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (4 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 54,7%). Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Ba ước tính đạt 28,2 tỷ USD, tăng 36,5% so với tháng trước. Tính chung quý I năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 75,31 tỷ USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,05 tỷ USD, tăng 17%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 50,26 tỷ USD, tăng 31,5%. Trong quý I năm 2021 có 15 mặt hàng nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 73,3% tổng kim ngạch nhập khẩu (2 mặt hàng đạt trên 5 tỷ USD, chiếm 36,7%). Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Hai nhập siêu 460 triệu USD[12]; 2 tháng xuất siêu 1,63 tỷ USD; tháng Ba ước tính xuất siêu 400 triệu USD. Ước tính quý I năm 2021 xuất siêu 2,03 tỷ USD[13], trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,75 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 8,78 tỷ USD. b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ Trong quý I/2021, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 869 triệu USD, giảm 77,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 34 triệu USD (chiếm 3,9% tổng kim ngạch), giảm 98,6%; dịch vụ vận tải đạt 70 triệu USD (chiếm 8,1%), giảm 86,9%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ quý I năm nay ước tính đạt 4,98 tỷ USD, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 2,38 tỷ USD (chiếm 47,7% tổng kim ngạch), tăng 25%; dịch vụ du lịch đạt 900 triệu USD (chiếm 18,1%), giảm 34,8%. Nhập siêu dịch vụ quý I năm 2021 là 4,11 tỷ USD, gấp gần 5 lần kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và tăng 2,86 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. 10. Nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng sau Tết Nguyên đán giảm theo quy luật hàng năm, giá các loại thực phẩm giảm do nguồn cung dồi dào là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2021 giảm 0,27% so với tháng trước, tăng 1,31% so với tháng 12/2020. So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng Ba tăng 1,16%, thấp nhất kể từ năm 2016[14]; CPI bình quân quý I/2021 tăng 0,29%, mức tăng thấp nhất trong 20 năm qua[15]. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2021 tăng 1,34% so với quý IV/2020 và tăng 4,54% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 1,04% và tăng 0,27%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,01% và giảm 0,27%; chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 2,14% và 4,63%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý I/2021 tăng 0,75% so với quý IV/2020 và giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tăng 1,54% và tăng 1,2%. Tỷ giá thương mại hàng hóa quý I/2021 giảm 0,78% so với quý IV/2020 và giảm 1,49% so với cùng kỳ năm trước. a) Chỉ số giá tiêu dùng Trong mức giảm 0,27% của CPI tháng 3/2021 so với tháng trước có 7/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, trong đó: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm nhiều nhất với 1,46%. CPI bình quân quý I/2021 tăng 0,29% so với bình quân cùng kỳ năm trước; CPI tháng 3/2021 tăng 1,31% so với tháng 12/2020 và tăng 1,16% so với cùng kỳ năm 2020. Lạm phát cơ bản bình quân quý I/2021 tăng 0,67% so với bình quân cùng kỳ năm trước. b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới do sự hỗ trợ của các gói kích thích tài khóa cùng với việc đồng USD và lợi suất trái phiếu Mỹ phục hồi khiến vàng trở nên kém hấp dẫn. Chỉ số giá vàng tháng 3/2021 giảm 2,97% so với tháng trước; giảm 0,63% so với tháng 12/2020 và tăng 16,84% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2021 tăng 0,23% so với tháng trước; giảm 0,11% so với tháng 12/2020 và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2020. c) Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá xuất, nhập khẩu Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2021 tăng 1,34% so với quý IV/2020 và tăng 4,54% so với cùng kỳ năm trước; tương tự, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 1,04% và tăng 0,27%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,01% và giảm 0,27%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý I/2021 tăng 0,75% so với quý IV/2020 và giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước; tương tự, chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tăng 1,54% và tăng 1,2%. Tỷ giá thương mại hàng hóa[16] quý I/2021 giảm 0,78% so với quý IV/2020 và giảm 1,49% so với cùng kỳ năm trước. II. TÌNH HÌNH XÃ HỘI 1. Tình hình lao động và việc làm[17] cả nước trong quý I/2021 chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 bùng phát trở lại vào cuối tháng Một. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giảm 1,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi lần lượt là 2,42% và 2,20%, tăng so với quý I/2020[18] Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I/2021 ước tính là 51 triệu người, giảm 1,1 triệu người so với quý trước và giảm 180,9 nghìn người so với cùng kỳ năm 2020; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ước tính đạt 68,7%, giảm 1,6 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc ước tính là 49,9 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước quý I/2021 ước tính là 2,19%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,96%; khu vực nông thôn là 1,76%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2021 ước tính là 2,20%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,52%; khu vực nông thôn là 2,60% (tỷ lệ thiếu việc làm của quý I/2020 tương ứng là 1,98%; 1,07%; 2,47%). 2. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện; chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn, đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội khu vực nông thôn. Bên cạnh việc chăm lo Tết cho người dân, tính đến ngày 23/3/2021, Chính phủ đã hỗ trợ cứu đói giáp hạt cho hơn 236,2 nghìn nhân khẩu với tổng lượng gạo là 3.393,5 tấn cho 7 địa phương: Quảng Bình, Lạng Sơn, Đắk Nông, Lai Châu, Gia Lai, Điện Biên và Sơn La. Như vậy từ tháng 6/2020 đến nay, đây là tháng thứ 10 liên tiếp không phát sinh thiếu đói trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, có hơn 22,2 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng chính sách trên đại bàn cả nước. Tính đến ngày 22/3/2021, cả nước có 5.193/8.267 xã (62,8%) và 180 huyện (chiếm 27,1% tổng số đơn vị cấp huyện của cả nước) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Có 12 tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 04 tỉnh: Nam Định, Đồng Nai, Hưng Yên và Hà Nam đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. 3. Công tác giáo dục, đào tạo gặp khó khăn khi dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trong những tháng đầu năm, ngành Giáo dục đã có những biện pháp cấp bách phòng, chống dịch trong các cơ sở giáo dục và đào tạo nhằm bảo đảm an toàn, kiểm soát hiệu quả, không để dịch bùng phát. Theo báo cáo sơ bộ, năm học 2020-2021 cả nước có 4.311,6 nghìn học sinh mẫu giáo, giảm 0,1% so với năm học 2019-2020; 17.547,6 nghìn học sinh phổ thông, tăng 3%, bao gồm 8.883,7 nghìn học sinh tiểu học, tăng 1,6%; 5.922,2 nghìn học sinh trung học cơ sở, tăng 4,9% và 2.741,7 nghìn học sinh trung học phổ thông, tăng 3,3%. Dịch Covid-19 đã khiến cho hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục nghề nghiệp nói riêng bị ngưng trệ, gián đoạn. Mặc dù nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp nỗ lực tiếp cận triển khai dạy học trực tuyến nhưng với đặc thù là học lý thuyết tại trường kết hợp với thực hành tại xưởng, nhà máy, xí nghiệp thì dạy nghề online là một thách thức. Năm 2021, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp đặt mục tiêu tuyển sinh 2,5 triệu người. Trong đó, trình độ cao đẳng là 260 nghìn người; trung cấp đạt 340 nghìn người; sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác đạt 1,9 triệu người. 4. Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Tại Việt Nam, tình hình dịch bệnh được khoanh vùng và kiểm soát kịp thời. Ba tháng đầu năm nay, cả nước có 15.982 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (3 trường hợp tử vong); 11.871 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (1 trường hợp tử vong); 81 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 6 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (1 trường hợp tử vong) và 104 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 4 trường hợp dương tính. Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp[19]. Tại Việt Nam, tính đến 6h00 ngày 28/3/2021 có 2.590 trường hợp mắc, 2.308 trường hợp đã được chữa khỏi (35 trường hợp tử vong). Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/3/2021 là 211.395 người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97.144 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 99.224 người. Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Ba xảy ra 10 vụ với 208 người bị ngộ độc. Tính chung 3 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 17 vụ với 400 người bị ngộ độc (2 người tử vong). 5. Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa luôn được quan tâm; các địa phương thực hiện nghiêm việc hạn chế các lễ hội trong những tháng đầu năm khi dịch Covid-19 chưa được đẩy lùi nhằm thực hiện công tác phòng, chống dịch hiệu quả. Bằng sự nỗ lực, tích cực trong công tác quảng bá, văn hóa Việt Nam đã và đang được cải thiện, thậm chí có sức lan tỏa rộng khắp trong và ngoài nước. Ngày 09/3/2021 có 8 di sản văn hóa phi vật thể thuộc 5 loại hình: nghề thủ công truyền thống, lễ hội truyền thống, nghệ thuật trình diễn dân gian, tập quán xã hội và tín ngưỡng, tri thức dân gian đã được công nhận và đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bước vào mùa lễ hội đầu năm 2021, trong bối cảnh dịch Covid-19 chưa được đẩy lùi, các địa phương vẫn thực hiện nghiêm việc hạn chế các lễ hội, điều chỉnh cho phù hợp để phòng, chống dịch hiệu quả, tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn, yêu cầu nhân dân thực hiện thông điệp “5K” tại các điểm du lịch, bảo tàng, di tích, danh lam thắng cảnh, nơi tổ chức hoạt động văn hóa, địa điểm tổ chức lễ hội. Bên cạnh công tác phòng chống dịch Covid-19, các hoạt động thể dục thể thao trong nước đang dần trở lại với không khí sôi động, được đông đảo người dân, người hâm mộ hưởng ứng, trong đó phải kể đến giải V-League đã chính thức thi đấu trở lại từ ngày 13/3/2021. Với mục tiêu giành vé tham dự Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 đội tuyển Bắn súng Việt Nam đã sang Ấn Độ dự giải Cúp Bắn súng thế giới, đây sẽ là chuyến thi đấu nước ngoài đầu tiên của thể thao Việt Nam sau một thời gian dài không tham dự các giải đấu quốc tế do ảnh hưởng của dịch Covid-19. 6. Tai nạn giao thông[20] tháng Ba năm 2021 giảm về số vụ và số người chết. Tính chung 3 tháng đầu năm, tình hình tai nạn giao thông giảm về số vụ nhưng tăng về số người chết và số người bị thương do tăng số lượng các vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên. Trong tháng (từ 15/2 đến 14/3), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 851 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 571 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 280 vụ va chạm giao thông, làm 442 người chết, 342 người bị thương và 296 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Ba giảm 22,7% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 8,1% và số vụ va chạm giao thông giảm 41,7%); số người chết giảm 14%; số người bị thương tăng 8,6% và số người bị thương nhẹ giảm 37,4%. Tính chung quý I/2021, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.206 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 2.074 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.132 vụ va chạm giao thông, làm 1.672 người chết, 1.122 người bị thương và 1.264 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm 2021 giảm 7,6% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 6,8%; số vụ va chạm giao thông giảm 25,9%); số người chết tăng 2%; số người bị thương tăng 11,8% và số người bị thương nhẹ giảm 19,2%. Bình quân 1 ngày trong 3 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 36 vụ tai nạn giao thông, gồm 23 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 13 vụ va chạm giao thông, làm 19 người chết, 13 người bị thương và 14 người bị thương nhẹ. 7. Thiên tai, ô nhiễm môi trường và cháy, nổ ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở một số địa phương Trong 3 tháng đầu năm, thiên tai làm 3 người mất tích; 1 người bị thương; 459,5 lúa và hoa màu bị hư hỏng; gần 3,9 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; 705 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong quý I ước tính gần 42,1 tỷ đồng, giảm 95,5% so với cùng kỳ năm trước. Cũng trong 3 tháng đầu năm, cơ quan chức năng đã phát hiện 5.375 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 4.764 vụ với tổng số tiền phạt 55,5 tỷ đồng; cả nước xảy ra 626 vụ cháy, nổ, làm 21 người chết và 39 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính là 161,2 tỷ đồng./. [1] Theo Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến tăng 4% trong năm 2021 sau khi giảm 4,3% trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Quỹ Tiền tệ Quốc tế nhận định, nền kinh tế toàn cầu sau khi tăng trưởng âm 3,5% vào năm 2020, dự kiến sẽ tăng 5,5% vào năm 2021. Các tổ chức kinh tế tài chính tư nhân như Conference Board và Fitch Ratings dự báo tăng trưởng thế giới năm 2021 tăng lần lượt là 5,0% và 6,1%. Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 5,6% trong năm 2021. [2] Mỹ bắt đầu triển khai gói cứu trợ giảm tác động tiêu cực của dịch Covid-19, kích thích nền kinh tế trị giá 1.900 tỷ USD. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 0%-0,25% và duy trì chương trình mua trái phiếu ở mức ít nhất 120 tỷ USD/tháng để hỗ trợ tiến trình phục hồi kinh tế Mỹ. [3] Hai chỉ số tổng hợp S&P 500 và chỉ số công nghiệp Dow Jones trên thị trường chứng khoán Phố Wall (Mỹ) đều xác lập các mức cao kỷ lục trong phiên giao dịch ngày 15/3. Tại thời điểm ngày 26/3, chỉ số S&P500 tăng 0,52%; chỉ số Dow Jones tăng 0,62%; chỉ số Nikkei 225 tăng 1,54% (Theo Reuters). [4] Giá tôm thẻ chân trắng ở Tây Nam Bộ tại thời điểm trung tuần tháng Ba: loại 80 con/kg là 108.500 đồng/kg, tăng 8.500 đồng/kg so với thời điểm cùng kỳ; loại 90 con/kg là 98.500 đồng/kg, tăng 6.500 đồng/kg; loại 100 con/kg là 95.500 đồng/kg, tăng 8.500 đồng/kg (http://agromonitor.vn/group/47/272/giam-sat-gia). [5] Giá tôm sú tại Tây Nam Bộ loại 30 con/kg tại thời điểm trung tuần tháng Ba là 170.000-180.000 đồng/kg, tăng 20.000-25.000 đồng/kg so với thời điểm kỳ cùng năm trước (http://agromonitor.vn/group/47/269/duy-nhat). [6] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Báo cáo nhận ngày 26/3/2021). [7] Chỉ số tương ứng của quý IV/2020: Có 75,3% số doanh nghiệp đánh giá tình hình kinh doanh tốt hơn và ổn định hơn quý trước, trong đó: 40,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn; 34,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Có 24,7% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn so với quý trước. [8] Vốn đầu tư mới tăng mạnh do trong tháng 3 có 3 dự án của Tập đoàn Vingroup đầu tư sang Pháp, Hà Lan, Canada với vốn đầu tư mỗi dự án là 32 triệu USD và 01 dự án 20,5 triệu USD tại Singapore với mục tiêu kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị viễn thông, điện tử, đồ gia dụng, ô tô. [9] Vốn đầu tư điều chỉnh tăng mạnh do trong tháng 3 có dự án của Vingroup tại Hoa Kỳ điều chỉnh tăng 300 triệu USD; dự án Công ty TNHH Đầu tư và phát triển cao su Đông Dương tại Campuchia tăng 76 triệu USD và 01 dự án của Vinfast tại Đức tăng 32 triệu USD. [10] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2020 đạt 123,02 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 63,39 tỷ USD, tăng 7,8%; nhập khẩu đạt 59,63 tỷ USD, tăng 3,9%. [11] Số liệu tháng 3/2021 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu tính đến ngày 25/3/2021 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào ngày 27/3/2021. [12] Tháng Hai ước tính nhập siêu 800 triệu USD. [13] Trong đó, quý I năm 2021 xuất siêu sang EU đạt 5,6 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 11,3 tỷ USD, tăng 65,1%; nhập siêu từ Hàn Quốc 8 tỷ USD, tăng 12,2%; nhập siêu từ ASEAN 2,8 tỷ USD, tăng 159,9%. [14] Tốc độ tăng CPI tháng Ba so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2021 lần lượt là: tăng 1,69%; tăng 4,65%; tăng 2,66%; tăng 2,7%; tăng 4,87%; tăng 1,16%. [15] Tốc độ tăng CPI bình quân quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2002-2021 lần lượt là: tăng 2,95%; tăng 3,82%; tăng 4,23%; tăng 9,07%; tăng 8,31%; tăng 6,58%; tăng 16,37%; tăng 14,47%; tăng 8,51%; tăng 12,79%; tăng 15,95%; tăng 6,91%; tăng 4,83%; tăng 0,74%; tăng 1,25%; tăng 4,96%; tăng 2,82%; tăng 2,63%; tăng 5,56%; tăng 0,29%. [16] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa. [17] Số liệu được tính toán theo Khung khái niệm mới của Tổ chức lao động quốc tế, tiêu chuẩn ICLS 19. [18] Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi quý I/2020 là 2,34%; tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi quý I/2020 là 1,98%. [19] Tính đến 6h00 ngày 28/3/2021 trên thế giới có 127.249,6 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (2.788,4 nghìn trường hợp tử vong). [20] Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải (Bộ Giao thông vận tải). THÔNG TIN THỐNG KÊ:Dữ liệu và Số liệu thống kê GẮN THẺ:Thông cáo báo chí CHỦ ĐỀ:Công nghiệpĐầu tư và Xây dựngDoanh nghiệpGiáo dụcLao độngNgân hàng, bảo hiểm và thu chi ngân sáchNông, Lâm nghiệp và Thủy sảnTài khoản quốc giaThống kê giáThương mại - Dịch vụY tế, mức sống dân cư, văn hóa, thể thao, trật tự an toàn xã hội và môi trường